Trên cơ sở các ý kiến đóng góp của đại biểu, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) gửi đến các đại biểu Quốc hội, trong đó nêu ra 6 nhóm vấn đề.
Sáng 28/5, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, Quốc hội đã thảo luận tại hội trường về dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) sửa đổi.
Trước khi các đại biểu thảo luận, thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp (UBTP) Lê Thị Nga trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi).
Chủ nhiệm UBTP Lê Thị Nga cho biết, tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Tổ chức TAND (sửa đổi), có 150 lượt ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH) phát biểu, 11 ĐBQH gửi ý kiến bằng văn bản, 12 lượt ý kiến ĐBQH hoạt động chuyên trách phát biểu. Trên cơ sở các ý kiến đóng góp của đại biểu, ngày 13/5/2024, UBTVQH đã có Báo cáo số 827/BC-UBTVQH15 giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tổ chức TAND (sửa đổi) gửi đến các ĐBQH.
UBTVQH báo cáo tóm tắt một số nội dung, theo đó có 6 nhóm vấn đề được UBTVQH giải trình, tiếp thu.
Thứ nhất, về thu thập tài liệu, chứng cứ trong giải quyết vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án
UBTVQH nhận thấy: Nghị quyết 27 về tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới yêu cầu: “Nghiên cứu, làm rõ... những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”. Luật Tổ chức TAND năm 2014 không quy định cụ thể về phạm vi thu thập chứng cứ của Tòa án. Các luật tố tụng quy định các hoạt động/biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ, trong đó BLTTDS và Luật TTHC quy định: nếu đương sự không thu thập được thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ. Từ đó, nhiều đương sự không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình, ỷ lại cho Tòa án thu thập, dẫn tới nhiều Tòa án quá tải công việc. Do đó, cần rà soát để quy định lại cho chặt chẽ.
Thực tiễn cho thấy, nếu Tòa án không thu thập chứng cứ trong một số trường hợp thì có thể gặp khó khăn trong việc giải quyết vụ án. Tiếp thu ý kiến ĐBQH và một số cơ quan, tổ chức hữu quan, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý Điều 15 dự thảo Luật theo hướng: Quy định Tòa án trực tiếp thu thập tài liệu, chứng cứ và hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ để thể chế hóa Nghị quyết 27 và phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta, đồng thời rà soát, bố cục lại các khoản trong điều luật cho phù hợp hơn.
Thứ hai, về đổi mới TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện theo thẩm quyền xét xử (khoản 1 Điều 4)
Chủ nhiệm UBTP Lê Thị Nga cho biết, có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Nhiều ý kiến không tán thành, nhưng cũng nhiều ý kiến tán thành dự thảo Luật về đổi mới TAND theo thẩm quyền xét xử.
UBTVQH nhận thấy, việc đổi mới TAND cấp tỉnh thành TAND phúc thẩm, TAND cấp huyện thành TAND sơ thẩm theo thẩm quyền xét xử, nhưng nhiệm vụ, quyền hạn của các Tòa án này thì không thay đổi. Các Tòa án vẫn gắn với đơn vị hành chính cấp huyện, cấp tỉnh; TAND phúc thẩm vẫn xét xử sơ thẩm một số vụ án. Quy định này chưa thống nhất về tổ chức với các cơ quan tư pháp khác ở địa phương và phải sửa đổi một số luật liên quan để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời phát sinh một số chi phí (như sửa con dấu, biển hiệu, các loại biểu mẫu, giấy tờ). Do đó, UBTVQH đề nghị cho giữ nguyên quy định của Luật hiện hành về TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện.
Tuy nhiên, do ĐBQH còn có ý kiến khác nhau, nên UBTVQH đã chỉ đạo xây dựng 2 phương án tại khoản 1 Điều 4 dự thảo Luật để trình Quốc hội xem xét, thảo luận.
Thứ ba, về Thẩm phán; Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án
Nhiều ý kiến tán thành quy định ngạch, bậc Thẩm phán trong dự thảo Luật. Nhiều ý kiến không tán thành. Một số ý kiến đề nghị quy định ngạch, bậc của Thẩm phán phải gắn với cải cách tiền lương.
UBTVQH nhận thấy: Về ngạch Thẩm phán, khác với công chức hành chính khác, Thẩm phán do Chủ tịch nước bổ nhiệm, là chức danh tư pháp đặc thù, trực tiếp giải quyết vụ án và chịu trách nhiệm về phán quyết của mình khi xét xử. Dự thảo Luật quy định ngạch Thẩm phán TANDTC và ngạch Thẩm phán là cơ bản phù hợp với đặc thù công tác xét xử; khắc phục được nhiều vướng mắc, bất cập trong thực tiễn. Do đó, đề nghị cho giữ quy định tại khoản 1 Điều 90 dự thảo Luật về ngạch Thẩm phán TANDTC và ngạch Thẩm phán.
Về bậc Thẩm phán: đối với ngạch Thẩm phán, cần thiết phải quy định các bậc Thẩm phán để có cơ sở bố trí Thẩm phán tại từng cấp Tòa án và sắp xếp vị trí việc làm theo Nghị quyết 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động (sau đây gọi là Nghị quyết 27 về cải cách chính sách tiền lương). Quy định này cơ bản phù hợp Nghị quyết 27-NQ/TW.
Tiếp thu ý kiến của ĐBQH, khoản 2 Điều 90 đã được chỉnh lý theo hướng: Giao UBTVQH quy định về bậc Thẩm phán, tiêu chuẩn, điều kiện của từng bậc, việc nâng bậc theo đề nghị của Chánh án TANDTC.
Về nhiệm kỳ của Thẩm phán, nhiều ý kiến tán thành dự thảo Luật về nhiệm kỳ Thẩm phán. Có ý kiến đề nghị bổ nhiệm Thẩm phán một lần đến khi nghỉ hưu. Một số ý kiến đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành.
UBTVQH nhận thấy, Thẩm phán là chức danh tư pháp đặc thù do Chủ tịch nước bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ xét xử và các nhiệm vụ khác theo quy định của luật. Quy định như dự thảo Luật là tiếp tục đổi mới về nhiệm kỳ Thẩm phán và thể chế hóa Nghị quyết 27: “Đổi mới… thời hạn bổ nhiệm,… nhất là đối với đội ngũ Thẩm phán”. Quy định này góp phần bảo đảm nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trường hợp Thẩm phán có vi phạm thì bị xử lý theo quy định. Do đó, UBTVQH đề nghị giữ quy định như dự thảo Luật.
Về bậc Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án (Điều 114, Điều 118):
Một số thành viên UBTVQH và TANDTC cho rằng: Thẩm tra viên Tòa án và Thư ký Tòa án là các chức danh tư pháp, không phải là công chức hành chính thông thường. Nhiệm vụ, quyền hạn của họ được quy định trong các luật tố tụng và pháp luật có liên quan. Do đó, đề nghị không quy định ngạch Thẩm tra viên Tòa án và ngạch Thư ký Tòa án, mà giao cho UBTVQH quy định bậc của Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án (Phương án 2 của các Điều 114 và 118 dự thảo Luật), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp cho hay.
Thứ tư, về bảo vệ Tòa án (Điều 140), có ý kiến đề nghị cần quy định bảo vệ trụ sở TANDTC, TAND cấp cao trong dự thảo Luật
UBTVQH nhận thấy: Hiện nay, toàn quốc có 3 trụ sở TAND cấp cao. Đây là nơi xét xử nhiều vụ án lớn, phức tạp và cũng là nơi lưu giữ nhiều hồ sơ, tài liệu mật, nhất là các tài liệu của các vụ án liên quan đến an ninh quốc gia, các vụ án thuộc diện Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo dõi, chỉ đạo, các vụ án đặc biệt nghiêm trọng với mức án cao nhất là tử hình.
Căn cứ vào vị trí, vai trò của TANDTC, các TAND cấp cao, việc đề xuất bảo vệ trụ sở các Tòa án này là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, để thống nhất với Luật Cảnh sát cơ động, đa số ý kiến UBTVQH đề nghị chỉnh lý như khoản 3 Điều 140 dự thảo Luật. Trên cơ sở quy định này và thực tế yêu cầu cần thiết bảo vệ trụ sở TAND cấp cao, VKSND cấp cao, UBTVQH đề nghị Chính phủ bổ sung Danh mục các mục tiêu bảo vệ tại Nghị định số 39/2021/NĐ-CP phù hợp với thẩm quyền được Luật Cảnh sát cơ động quy định.
Có ý kiến thành viên UBTVQH và TANDTC đề nghị cần quy định bảo vệ Tòa án trong dự thảo Luật, cụ thể là: Trụ sở TANDTC, TAND cấp cao là mục tiêu quan trọng về chính trị được lực lượng Cảnh sát nhân dân canh gác, bảo vệ theo quy định của pháp luật. Trụ sở các Tòa án khác được Tòa án bố trí lực lượng bảo vệ. Kinh phí và điều kiện bảo đảm hoạt động của lực lượng bảo vệ do ngân sách nhà nước bảo đảm.
Thứ năm, về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp (khoản 3 Điều 141)
Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga cho biết, đa số ý kiến UBTVQH đề nghị chỉnh lý như khoản 3 và khoản 4 Điều 141 dự thảo Luật theo hướng: Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử tại phiên tòa, phiên họp phải được sự đồng ý của Chủ tọa phiên tòa,... Việc ghi hình ảnh tại phiên tòa, phiên họp chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp và tuyên án, công bố quyết định; đồng thời, bổ sung quy định tại khoản 4 về việc Tòa án ghi âm, ghi hình toàn bộ diễn biến phiên tòa, phiên họp… (Phương án 1 quy định tại khoản 3 và khoản 4 dự thảo Luật).
Một số ý kiến của UBTVQH và TANDTC đề nghị quy định khoản 3 Điều 141 như sau: “3. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh tại phiên tòa, phiên họp chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp và tuyên án, công bố quyết định khi có sự cho phép của Chủ tọa phiên tòa, phiên họp…”; đồng thời, bổ sung quy định tại khoản 4 về việc Tòa án ghi âm, ghi hình toàn bộ diễn biến phiên tòa, phiên họp để phục vụ nhiệm vụ chuyên môn,…
Thứ sáu, về quy định tiền lương, phụ cấp của Thẩm phán, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Toà án (Điều 142)
UBTVQH nhận thấy: Nghị quyết 27 đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp: “…Ðổi mới chính sách, chế độ tiền lương,… nhất là đối với đội ngũ thẩm phán”. Quy định tại khoản 1 Điều 142 dự thảo Luật thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với đặc thù công tác xét xử; kế thừa quy định của Luật hiện hành và cơ bản thống nhất Nghị quyết 27.
Cùng với các vấn đề nêu trên, UBTVQH đã chỉ đạo Thường trực UBTP phối hợp với Cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan hữu quan rà soát, nghiên cứu tiếp thu ý kiến các ĐBQH như các nội dung nêu trong Báo cáo đầy đủ của UBTVQH, cũng như rà soát, chỉnh lý, hoàn thiện kỹ thuật lập pháp của dự thảo Luật. Sau khi tiếp thu, chỉnh lý, dự thảo Luật có 09 Chương, 153 Điều.