Vụ vay 7,5 tỷ mất cả căn biệt thự tại Hải Dương: Nhiều tình tiết bị bỏ quên

Minh Anh| 08/11/2022 21:59

Liên quan đến vụ người phụ nữ tại Hải Dương cho vay 7,5 tỷ đồng rồi ép người vay phải trả trên 33 tỷ, Tòa Giám đốc thẩm đã tuyên hủy cả hai bản án sơ thẩm, phúc thẩm lần 2. Vụ việc vẫn đi đến hồi kết khi lần thứ ba, phiên tòa sơ thẩm tại TAND TP Hải Dương được mở ra. Đáng nói, Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2022/DS-ST ngày 17/8/2022 của TAND TP Hải Dương vẫn không được đồng tình.

Đưa tài sản không liên quan vào vụ án

Trong đơn tố cáo nguyên đơn Phạm Thị Hương, bà Đinh Bích Hợp cho biết: Năm 2005, khi bà Hợp đang làm đại lý bất động sản cho Công ty CP Tập đoàn Nam Cường, bà Hương chủ động “làm thân” để kết hợp làm ăn.

Năm 2010, bà Hợp mua của Tập đoàn Nam Cường lô đất 89,6m2 số 15.3-17 đường Phùng Chí Kiên (khu An Phú 3, khu đô thị phía Tây TP Hải Dương), đã nộp đủ số tiền 1 tỷ 384 triệu đồng. Bà Hợp để lại cho bà Hương giá gốc, đồng thời cho bà Hương 20% phần chiết khấu từ Tập đoàn Nam Cường. Tuy nhiên thực tế bà Hương mới trả 1 tỷ 50 triệu, còn lại 334 triệu bà Hương không trả. Chính vì thế, bà Hợp đã báo cho Tập đoàn Nam Cường chưa sang tên cho bà Hương nên đến nay, lô đất này vẫn xảy ra tranh chấp.

anh-bai-5-biet-thu-khu-dinh-long.jpg
Tòa biệt thự tại khu Đỉnh Long được nói tới trong vụ án

Quá trình giải quyết lại vụ án, ngày 1/10/2019, nguyên đơn Phạm Thị Hương có đơn khởi kiện bổ sung đề nghị Tòa án buộc bà Hợp phải trả lại quyền sử dụng 89,5m2 đất ở thuộc lô 15.3-17, đường Phùng Chí Kiên. Ngày 22/10/2019, bà Hương thay đổi yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án công nhận bà Hương có quyền sử dụng hợp pháp đối với lô đất số 15.3-17 nêu trên. Vậy nhưng, Bản án sơ thẩm ngày 17/8/2022 lại xác định lô đất này là tài sản chung của bà Hương và vợ chồng bà Hợp, sau đó tiến hành chia tài sản chung.

VKSND TP Hải Dương đã phản đối phán quyết trên của TAND TP Hải Dương. Cụ thể, Quyết định Kháng nghị phúc thẩm nêu rõ: Yêu cầu khởi kiện bổ sung ban đầu của bà Hương là kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất (QSDĐ) đối với bà Hợp. Sau đó bà Hương thay đổi yêu cầu khởi kiện bổ sung thành yêu cầu công nhận bà Hương có quyền sử dụng hợp pháp đối với lô đất 15.3-17 nên đây là tranh chấp ai là người có QSDĐ, cần được hòa giải tại UBND cấp xã theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai 2013.

Căn cứ khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 04/2017 năm 2017 của HĐTP TANDTC xác định bà Hương chưa có đủ điều kiện khởi kiện đối với nội dung này, cần đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện bổ sung của bà Hương trong vụ án này và bà Hương có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

Mặt khác, lô đất này hiện vẫn đang thuộc sự quản lý của Tập đoàn Nam Cường, chưa ký kết hợp đồng chuyển nhượng cho ai. Bà Hợp là người nộp tiền mua đất theo các phiếu thu nhưng chưa nộp thuế, phí, nên Tập đoàn Nam Cường chưa làm thủ tục chuyển nhượng cho bà Hợp.

Tài liệu trong hồ sơ thể hiện không có việc bà Hương và bà Hợp thỏa thuận mua chung thửa đất này. Cả bà Hợp và bà Hương đều không thuộc một trong các trường hợp được cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định tại Điều 99 Luật Đất đai 2013. Bản án xác định lô đất này là tài sản chung của bà Hương, bà Hợp, ông Thái và tiến hành chia tài sản chung là không có căn cứ pháp luật, không phù hợp quy định của Luật Đất đai về điều kiện công nhận QSDĐ.

Cần làm rõ căn cứ xác định số nợ

Đối với việc xác định số nợ, bà Đinh Bích Hợp cho biết, tất cả các giấy vay đều không ghi lãi, duy nhất có một giấy vay 3 tỷ là trong giấy ghi 2,4%/tháng. Nhưng bà Hương không tính theo trong giấy vay mà tự tính lãi ngày, lãi mẹ đẻ lãi con.

Đáng nói, HĐXX sơ thẩm lần 3 (ngày 17/8/2022) đã quyết định: Xác định giấy chốt nợ ngày 25/1/2013 không phải là nợ gốc, nợ gốc được tính tương đương giá trị nhà đất là 25,3 tỷ đồng được định giá ngày 4/11/2021. Bà Hợp chưa thanh toán cho bà Hương tính đến 26/3/2013 là trên 20,19 tỷ đồng; bà Hương chưa thanh toán tiền mua căn hộ Ciputra Hà Nội của bà Hợp là 3 tỷ đồng; buộc bà Hợp trả cho bà Hương số tiền trên 16,29 tỷ đồng, sau khi đã đối trừ các khoản.

anh-bai-5-ban-an-so-tham-moi-nhat.jpg
Bản án sơ thẩm ngày 17/8/2022 của TAND TP Hải Dương

Thứ nhất, về việc Bản án sơ thẩm lần 3 xác định số tiền nợ của bà Hợp với bà Hương từ năm 2008 đến năm 2013 bằng việc xác định giá trị nhà, đất ở khu biệt thự Đỉnh Long và 3 tỷ đồng giá trị căn chung cư Ciputra là không có cơ sở vì giá trị nhà đất không phải là căn cứ xác định số nợ của các bên, số nợ của các bên chỉ là tiền để mua nhà đất. Việc xác định số nợ gốc phải dựa trên các giấy biên nhận vay nợ, các giấy thanh toán tiền vay và các giấy tờ khác liên quan đến việc vay nợ do các bên cung cấp, trên cơ sở đó xác định tiền lãi theo quy định của pháp luật.

Về việc này, VKSND TP Hải Dương đã cho ý kiến: Các bên thống nhất đối trừ nợ bằng giá trị nhà đất tại thời điểm ngày 26/3/2013, nhưng HĐXX lại xác định giá trị tài sản tại ngày 4/11/2021 để tính số tiền nợ gốc là thu thập, đánh giá chứng cứ là không đủ, không đảm bảo quyền lợi của đương sự.

Thứ hai, về việc xác định con số nợ, bà Hợp khẳng định trước khi đưa ra xét xử sơ thẩm ngày 17/8/2022 bà Hợp nộp cho TAND TP Hải Dương chứng cứ mới cho thấy bà Hợp chỉ vay 7,5 tỷ do chính bà Hương viết và làm sao số tiền này lại thành hơn 30 tỷ đồng.

Quyết định Kháng nghị phúc thẩm mới đây của VKSND TP Hải Dương cũng một lần nữa khẳng định: Biên bản lấy lời khai của bà Hương ngày 29/10/2014 tại TAND TP Hải Dương (Bút lục 605-606) thể hiện: “Toàn bộ số tiền tại các giấy biên nhận nợ của các ngày 22/7/2008 bà Hợp vay 1 tỷ, ngày 14/9/2008 triệu, ngày 25/11/2008 vay 300 triệu và giấy biên nhận ngày 31/10/2012 do anh Nguyễn Văn Thành nhận tiền vay hộ bà hơn 200 triệu (anh Thành ký nhận) không nằm trong tổng số 33.127.000.000đ mà tôi và bà Hợp đã chốt nợ. Tất cả các khoản tiền trong các giấy biên nhận nợ trên bà Hợp đã trả cho tôi”.

Như vậy, tổng số tiền 1.800.000.000đ bà Hợp đã trả nợ bà Hương theo 04 giấy biên nhận nêu trên đã được các bên đương sự công nhận, là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. HĐXX lại xác định bà Hợp chưa thanh toán các khoản vay này với căn cứ do bà Hợp không cung cấp được chứng cứ là vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Thứ ba, về khoản tiền 2 tỷ đồng bà Hợp vay của bà Hương, ông Hoan (bạn của bà Hương) đã công nhận trước Tòa rằng bà Hợp lấy số tiền này tại cơ quan ông Hoan, ghi giấy vay bà Hương; sau đó bà Hợp đã lấy ô đất 407 m2 để gán nợ cho ông Hoan (lấy tên ông Bùi Huy Sùng - bố đẻ ông Hoan).

anh-bai-5-qd-giam-doc-tham.jpg
Quyết định Giám đốc thẩm tuyên hủy hai bản án phúc thẩm và sơ thẩm lần hai

Trước đó, Tòa Giám đốc thẩm tuyên hủy cả hai bản án sơ thẩm, phúc thẩm lần 2, nêu rõ: “Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ về việc mua bán lô đất số 53.05 tại Tập đoàn Nam Cường và chưa lấy lời khai của những người làm chứng để làm rõ bà Hợp có trả tiền mua lô đất số 53.05 cho ông Sùng (bố của ông Hoan – bạn bà Hương) hay không? Từ đó làm rõ bà Hợp có đối trừ khoản vay 02 tỷ đồng bằng việc trả tiền mua lô đất số 53.05 khu đô thị mới phía Đông thành phố Hải Dương hay không nhưng vẫn buộc bà Hợp phải trả bà Hương khoản vay 02 tỷ đồng là thu thập chứng cứ không đầy đủ và chưa đủ cơ sở vững chắc”.

Vậy nhưng không hiểu sao bản án sơ thẩm thứ 3 này vẫn tiếp tục không công nhận số tiền 2 tỷ được đối ứng bằng đất, sau đó cộng thêm khoản nợ này và yêu cầu bà Hợp phải trả? Liệu tới phiên tòa phúc thẩm lần 3 sắp tới, TAND tỉnh Hải Dương có khắc phục được những hạn chế như phiên phúc thẩm lần 2 trước đó, đưa vụ án tới hồi kết?

Chúng tôi xin tiếp tục thông tin ở kỳ sau.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Vụ vay 7,5 tỷ mất cả căn biệt thự tại Hải Dương: Nhiều tình tiết bị bỏ quên
POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO