Y tế

Nguyên nhân, triệu chứng và cách phòng ngừa bệnh bạch hầu

Anh Đức 10/07/2024 - 16:26

Bệnh bạch hầu là căn bệnh nhiễm trùng cấp tính, do trực khuẩn bạch hầu Corynebacterium diphtheriae gây ra. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng 70% là ở trẻ dưới 15 tuổi và chưa được tiêm đầy đủ vắc-xin. Ngay cả khi được điều trị, tỷ lệ tử vong của bệnh cũng lên tới 5-10%.

31(1).jpg
Ảnh minh họa.

Nguyên nhân gây ra bệnh bạch hầu

Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae thuộc họ Corynebacteriaceae là nguyên nhân gây bệnh bạch hầu. Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae có 3 týp là Gravis, Mitis và Intermedius.

Vi khuẩn có sức đề kháng cao ở ngoài cơ thể và chịu được khô lạnh. Nếu được chất nhầy bao quanh cơ thể, vi khuẩn có thể sống trên đồ vật vài ngày, thậm chí là vài tuần. Một đặc điểm khác của vi khuẩn bạch hầu là sự nhạy cảm với các yếu tố lý, hóa. Dưới ánh sáng mặt trời, vi khuẩn sẽ chết sau vài giờ, ở nhiệt độ 58 độ C vi khuẩn sống được 10 phút, ở phenol 1% và cồn 60 độ có thể sống được 1 phút.

Ổ chứa vi khuẩn nằm ở người bệnh và cả người lành mang vi khuẩn. Đây vừa là ổ chứa, vừa là nguồn truyền bệnh.

Thời gian ủ bệnh thường từ 2 đến 5 ngày, có thể lâu hơn. Thời kỳ lây truyền bệnh thường không cố định, có thể kéo dài khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn, ít nhất là trên 4 tuần. Người bệnh đã có thể đào thải vi vi khuẩn từ thời kỳ khởi phát, hoặc cũng có thể từ cuối thời kỳ ủ bệnh. Người lành mang vi khuẩn bạch hầu có thể từ vài ngày đến 3, 4 tuần; hiếm có trường hợp mang vi khuẩn mạn tính kéo dài trên 6 tháng.

Bệnh lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Bệnh còn có thể lây bằng việc tiếp xúc với đồ vật có dính chất bài tiết từ người bệnh.

Ai cũng có thể mắc bệnh bạch hầu. Tuy nhiên, bệnh chủ yếu xảy ra ở trẻ em và một số nhóm đối tượng có nguy cơ mắc bệnh như: Người chưa được tiêm vaccine phòng bệnh; Người sống trong điều kiện đông, mất vệ sinh; Trẻ em dưới 15 tuổi do chưa đủ miễn dịch (do không tiêm phòng vắc xin hoặc đã tiêm nhưng chưa đủ số mũi tiêm theo khuyến cáo); Những người suy giảm miễn dịch, mắc các bệnh mạn tính.

Các biến chứng nguy hiểm của bệnh bạch hầu

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), biến chứng của bệnh bạch hầu vô cùng nguy hiểm, nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời thì có thể dẫn đến tử vong rất nhanh, chỉ trong 6-10 ngày. Dưới đây là những biến chứng nguy hiểm của bệnh:

Đường hô hấp tắc nghẽn gây khó thở

Hầu hết các triệu chứng bệnh bạch hầu chủ yếu là gây viêm họng, đau họng, tổn thương thanh quản. Vi khuẩn bạch hầu sẽ tạo lớp giả mạc màu trắng ngà do các mô tế bào bị viêm tạo ra lớp màng giả mạc bám chặt vào trong vòm họng. Nếu không được điều trị, mảng giả mạc này sẽ phát triển và lan rộng lấp đường hô hấp gây khó thở, ngạt thở, suy hô hấp cho người bệnh.

Viêm cơ tim

Đây là một trong những biến chứng đặc biệt nghiêm trọng của bệnh bạch hầu. Biến chứng viêm cơ tim thường xảy ra khi người bệnh ở giai đoạn toàn phát hoặc vài tuần sau khi khỏi bệnh. Ngoại độc tố bạch hầu tiết ra làm ảnh hưởng đến tim, gây rối loạn nhịp tim và có thể tử vong đột ngột do trụy tim.

Tổn thương các dây thần kinh dẫn đến tê liệt

Độc tố bạch hầu rất mạnh, chúng còn làm tổn thương các dây thần kinh dẫn đến tê liệt. Biến chứng này có thể xảy ra khoảng vài tuần sau khi xuất hiện những triệu chứng đầu tiên của bệnh bạch hầu.

Liệt màn khẩu cái (màn hầu)

Liệt màn khẩu cái thường xuất hiện vào tuần thứ 3 của bệnh. Đây cũng là một trong những biến chứng khác có thể gặp khi mắc bạch hầu.

Bàng quang mất kiểm soát

Khi dây thần kinh ở vị trí này bị tổn thương, người bệnh sẽ không thể kiểm soát được hoạt động của bàng quang khiến đi tiểu thường xuyên, tiểu rắt,… Các vấn đề liên quan đến kiểm soát bàng quang thường phát triển trước khi cơ hoành bị tê liệt, đây cũng có thể được xem là dấu hiệu cảnh báo sớm người bệnh có nguy cơ cao gặp các vấn đề nghiêm trọng về hệ hô hấp.

Cơ hoành bị tê liệt

Cơ hoành có chức năng rất quan trọng trong hệ hô hấp giúp duy trì sự sống. Tuy nhiên, với những người mắc bạch hầu, cơ hoành bị tê liệt một cách đột ngột với thời gian kéo dài khiến người bệnh có nguy cơ tử vong cao.

Biến chứng tê liệt cơ hoành thường xuất hiện vài tuần sau khi có triệu chứng mắc bệnh bạch hầu, ngay cả khi người bệnh đã phục hồi sau nhiễm trùng ban đầu hoặc xuất hiện sau các biến chứng nhiễm trùng phổi, viêm cơ tim,…

Nhiễm trùng phổi (suy hô hấp hoặc viêm phổi)

Biến chứng này có thể xảy ra vào tuần thứ 5 của bệnh dẫn đến liệt chi, liệt cơ hoành và các dây thần kinh vận nhãn. Điều này khiến người bệnh gặp phải các biểu hiện khó thở, ngạt thở thường xuyên hơn, thậm chí có thể dẫn đến nhiễm trùng phổi (viêm phổi hoặc suy hô hấp).

Tử vong

Bệnh bạch hầu rất nguy hiểm, ngay cả khi được điều trị kịp thời, vẫn có khoảng 1/10 số người bệnh tử vong vì căn bệnh này.

Cách phòng ngừa bệnh bạch hầu

Hiện nay, bệnh bạch hầu đã có thuốc điều trị và hoàn toàn có thể được phòng ngừa hiệu quả bằng việc tiêm vắc xin. Tại Việt Nam, tuy chưa có vắc xin đơn phòng bệnh bạch hầu, nhưng người dân có thể tiêm các loại vắc xin phối hợp trong đó có thành phần kháng nguyên bạch hầu, vừa phòng được bệnh bạch hầu vừa phòng được nhiều bệnh truyền nhiễm khác chỉ trong một mũi tiêm.

Bên cạnh đó, người dân cũng cần chú ý: Giữ vệ sinh cá nhân, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng; che miệng khi hắt hơi hoặc ho; hạn chế tiếp xúc trực tiếp với người bệnh hoặc nghi ngờ nhiễm bệnh.

Đảm bảo không gian nhà ở, trường học, các nơi công cộng sạch sẽ, thông thoáng và có đủ ánh sáng.

Với những người xuất hiện các triệu chứng mắc bệnh hoặc nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu cần được cách ly và đưa đến cơ sở y tế thăm khám, chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Người dân sống trong vùng có ổ dịch cần chấp hành nghiêm túc việc khám chữa bệnh cũng như các chỉ định phòng bệnh của cơ sở y tế.

Bệnh bạch hầu là căn bệnh có tốc độ lây lan nhanh, biến chứng nguy hiểm và đặc biệt là tỷ lệ tử vong cao. Do đó, dù là trẻ em hay người lớn cũng cần tiêm chủng vắc xin đầy đủ, đến Bệnh viện điều trị ngay khi có những triệu chứng bệnh, để tránh những hệ lụy đáng tiếc về sau.

Anh Đức